Hắn lấy ra một vật, đặt vào tay ta.
Đó là một cánh diều cũ kỹ.
Tai thỏ lệch hẳn, khung diều gãy nứt, sắc vải cũng phai bạc thành màu hồng tro, trên bề mặt vẫn còn thêu vụng về mấy cánh hoa đào – từng đường kim mũi chỉ ngây ngô, vụng về mà đáng .
Ngón tay ta khẽ chạm vào mảnh vải ấy.
Hắn giễu chính mình:
“Cô nương xem, xấu đến nhường này.”
“Hồi nhỏ, ta giận quá, giẫm cho gãy nát khung diều. Vậy mà không hiểu sao, vẫn cứ giữ lại tới bây giờ.”
Ta khẽ hỏi:
“Mẫu thân ngươi tên gì?”
Hắn đáp:
“Ta gọi bà là A Hà.”
Ta nhẹ nhàng trả cánh diều cũ vào tay hắn.
Thuận miệng phụ họa:
“Quả thật rất xấu.”
Hắn bật thành tiếng:
“Phải đó.”
“Tiếc là bây giờ, chẳng còn ai ra nữa.”
Hắn bỗng , :
“Thôi, đừng nhắc chuyện cũ nữa, chán lắm.”
“Chuyện cũ đã qua rồi, chi bằng nương kể chuyện của mình cho ta nghe một chút đi?”
“Ta?”
Ta siết chặt lớp băng cuối cùng trên vai hắn, giọng vẫn nhàn nhạt:
“Chuyện của ta, chẳng đáng nhắc tới.”
Hắn chống cằm, lười nhác ta:
“Những chuyện càng không muốn nhắc tới, lại càng khiến người ta tò mò.”
“Hay là nương cũng có một vị mẫu thân từng diều giấy?”
Ta đặt hũ thuốc xuống, đáp:
“Phụ mẫu ta c.h.ế.t vì ôn dịch từ khi ta còn nhỏ.”
Sau đó, ta lặng lẽ kể:
Ngày đó, ta còn bé, quê ở phương Bắc.
Vùng ấy thường xuyên bị người Kim cướp bóc, về sau còn bùng phát dịch bệnh.
Khi ấy, ta mới sáu tuổi.
Cả nhà đều c.h.ế.t trong trận ôn dịch.
Ta trốn trong góc nhà, nhịn đói suốt ba ngày ba đêm, chỉ uống nước mưa cầm hơi.
Đến khi sắp c.h.ế.t đói, ta mới lết ra khỏi nhà, định tìm gì ăn.
Nhưng vừa ra tới đầu thôn, ta liền gặp phải toán quân Kim đang cướp .
Con chó già nhà bên cạnh ta bị c.h.é.m c.h.ế.t ngay trước mắt.
Ta ôm c.h.ặ.t x.á.c chó, run rẩy, ngỡ rằng mình cũng sắp chết.
Chính lúc đó, một người đàn ông mặc áo xanh đã cứu ta.
Hắn trông sạch sẽ, thư sinh, hoàn toàn không giống kẻ xấu.
Ta chẳng phân biệt nổi thiện ác, chỉ nghĩ, hắn chịu cứu ta, ắt là người tốt.
Hắn hỏi ta:
“Ngươi còn muốn sống không?”
Ta gật đầu.
Hắn đưa ta ra khỏi thôn, mang tới khu phố cũ dưới chân thành Đông Sơn.
Ta đói đến hoa mắt, hắn cũng chẳng gì, chỉ bảo người bẻ nhỏ một chiếc bánh khô đút cho ta ăn.
Ở khu đó, có rất nhiều đứa trẻ như ta.
Chúng ta đều không lớn lắm, xuất thân tứ xứ, phần nhiều là con cái của lưu dân hoặc trẻ mồ côi.
Mỗi ngày, khi trời còn chưa sáng, chúng ta đã phải dậy.
Học xong buổi sáng, phải đồng thanh đọc thuộc 《Trung Nghĩa Đồ Giám》 – quyển sách vẽ lại cuộc đời của những người trung thành với chủ quân.
Ta nhớ nhất là một người tên Trần Đường.
Mẫu thân hắn c.h.ế.t sớm, chủ quân cứu mạng.
Sau này chủ quân trúng độc, Trần Đường nguyện c.h.ặ.t t.a.y lấy m.á.u cứu chủ.
Tranh vẽ hắn quỳ một gối trên đất, giơ cao d.a.o găm, sắc mặt bình thản không chút sợ hãi.
Người quản sự :
“Đó mới là trung thần thực sự.”
Lúc đó, ta không hiểu thế nào là “trung quân”.
Nhưng trong lòng ta nghĩ: nếu quả thực trên đời có chủ quân, thì hẳn phải giống người áo xanh ấy – chẳng nhiều lời, lại cứu ta khỏi tay người Kim.
Ngoài giờ học, đôi khi chúng ta còn bị đưa đi “thử độc”.
Lần đầu tiên ta thực sự cảm thấy sợ hãi, là ở nơi tập trung đầy côn trùng có độc.
Bọn chúng đủ loại hình dạng, lớn nhỏ khác nhau, bị nhốt trong lọ thuốc, giãy giụa kịch liệt.
Chúng ta căn dặn:
Không khóc.
Không nôn.
Không bỏ chạy.
Một gã mặt trắng và dài, giọng the thé :
“Nếu muốn trung quân, trước tiên phải không sợ thử độc.”
Tối hôm đó, ta trốn trong góc giường, lặng lẽ lau nước mắt.
Một bé ngồi bên cạnh ta, lặng lẽ đưa cho ta một miếng bánh nhỏ.
Nàng dịu dàng :
“Sợ cũng vô ích thôi. Chúng ta chủ quân cứu, phải báo đáp ngài ấy.”
Câu ấy, sau này ta còn nghe rất nhiều lần từ miệng người khác.
Ta chính là lớn lên trong hoàn cảnh như .
Ta học cách, trong đêm khuya, điều chế thuốc trộn lẫn độc của rắn và chuột.
Học cách, khi đau đớn ập tới, cũng không để lộ vẻ hoảng loạn.
Học cách, khi xương gãy hay mưng mủ, cũng không chau mày.
Xung quanh ta, có rất nhiều đứa trẻ đã c.h.ế.t trong các lần thử độc.
Thế quản sự vẫn :
“Bọn chúng c.h.ế.t cũng là mỉm ra đi.”
Còn ta, thân thể khỏe mạnh, cố gắng gượng qua .
Có lẽ bởi vì ta trung thành, lại có sức chịu đựng hơn người, nên “chủ quân” đã thấy giá trị của ta.
Năm ta tám tuổi, chủ quân triệu ta tới trước mặt.
Hắn hỏi:
“Ngươi muốn chọn con đường nào?”
Làm độc sĩ?
Làm thích khách?
Hay trở thành nữ y?
Ta ngước mắt Văn Hoè, chậm rãi kể:
“Khi đó ta cũng không biết mình muốn gì. Chỉ bất chợt nhớ tới một ký ức cũ.”
Ngày ấy, bên cạnh thôn ta có một nương từng tạm trú.
Nàng rất tốt, lúc rảnh rỗi thường dạy bọn trẻ con trong thôn học chữ, giúp người già trong làng ghi sổ sách.
Có lần, nhà một bà lão cứ bị mất trộm trứng gà, sổ sách kiểm lại không khớp, chính nàng đã thay bà đi đòi lại công bằng.
Ngoài ra, nàng cũng biết chút y thuật.
Một năm nọ, vào mùa đông, phụ thân ta vào núi săn bắn, mãi không thấy trở về.
Khi có người tìm ông, chỉ thấy thân thể đã bị gấu vồ, ruột gan lòi cả ra ngoài.
Không ai dám tới gần, m.á.u đỏ chảy ngập đất.
Ta òa khóc, cầu xin y quán cứu chữa, bị bọn họ đá văng ra ngoài, sợ mất tiếng tăm.
Cuối cùng, chính nàng — vị nương ấy — cùng một vị bằng hữu của nàng, đã xông vào giữa đám đông, kéo xác phụ thân ta về.
Bạn thấy sao?