Chỉ là im lặng đến ngột ngạt.
Cảm giác ấy tôi nhớ lại bốn mươi năm sau hôn nhân ở kiếp trước – độc như sống với một người câm.
Khi về đến làng thì đã hơn tám giờ tối.
Người trong làng sống tiết kiệm, buổi tối chẳng ai dám bật đèn, cả làng chìm trong bóng tối.
Tiếng chó sủa vang lên khi xe chúng tôi chạy vào làng.
Mẹ tôi mất sớm.
Cha tôi đã qua đời mười năm trước, khi cố cứu lấy Mạnh Sĩ An trong một trận lũ quét.
Từ đó, tôi sống trong nhà họ Mạnh.
Bác trai bác nhà họ Mạnh đối xử với tôi rất tốt, luôn coi tôi là con dâu thật sự.
Thấy chúng tôi vào nhà, bác vừa hâm lại cơm trên bếp, vừa vui vẻ với ta:
“Con à, con chịu đưa vợ theo quân là đúng đấy!”
“Ngày ngày sống cùng nhau, để cha mẹ còn sớm bế cháu nội!”
Mạnh Sĩ An chỉ im lặng, môi mím chặt.
Anh ta là kiểu người cố chấp đến mức đáng sợ.
Kiếp trước, vì không lấy người phụ nữ mình , ta thà cả đời không có con, để nhà họ Mạnh tuyệt hậu.
Bác trai bác vì thế mà mang theo nỗi tiếc nuối khi rời cõi đời.
“Con phải đối xử tốt với Diệp Đàn, nhà họ Diệp đã có ơn với con!”
“Nếu không nhờ cha ấy cứu con năm đó, con đã chẳng còn sống để đoàn trưởng gì hết!” Bác trai thấy ta bắt đầu tỏ thái độ liền lên tiếng nhắc nhẹ hắn.
“Được rồi! Con đã sẽ cưới ấy rồi mà!”
“Cha mẹ đừng ép nữa không? Con biết ơn bác Diệp đã cứu con, khi đó chỉ là một tai nạn!”
“Con thà chết, còn hơn mang món nợ này cả đời! Phải lấy hôn nhân để trả ơn – con không chấp nhận nổi!”
Mười năm trước, cha tôi là trung đội trưởng dân quân của làng.
Hôm đó có lũ lớn, Mạnh Sĩ An bị nước cuốn vào khe núi.
Cha tôi liều mạng lao xuống cứu, cuối cùng kiệt sức mà c.h.ế.t đuối.
Tôi thành trẻ mồ côi, đưa về sống trong nhà họ Mạnh.
“Con à, từ nay con chính là con nhà họ Mạnh, là vợ của Sĩ An.”
Câu đó đã hủy cả đời tôi.
Vì câu hứa ấy, Mạnh Sĩ An đồng ý cưới tôi – trong lòng lại luôn cho rằng ta bị ràng buộc bởi đạo nghĩa.
Anh ta hận tôi vì đã “chiếm lấy” cuộc đời ta, ta lỡ dở chuyện .
Vì , dù chúng tôi kết hôn suốt 40 năm, ta chưa từng đụng vào tôi, cũng không thèm chuyện với tôi.
“Mày đang cái kiểu gì thế hả?”
“Mày tưởng đoàn trưởng rồi là tao không dám dạy mày à?”
“Thằng ranh! Dù có đến tư lệnh, tao vẫn là cha mày!”
Bác trai tức giận đến mức râu ria dựng cả lên, vớ lấy cây cán bột định đánh ta.
Tôi vội lên tiếng can ngăn:
“Bác à, ấy mệt rồi, để ấy ăn cơm trước đi.”
Dù sao cũng chỉ còn vài ngày nữa là tôi sẽ rời khỏi nơi này.
Tôi không muốn ồn ào, chỉ muốn yên tĩnh rời đi.
Tôi cũng hiểu rõ tính cách của Mạnh Sĩ An – càng ép, ta càng phản cảm.
Kiểu người như ta, không thể dạy dỗ bằng đòn roi.
“Con à!”
Bác nắm tay tôi, nhỏ giọng dặn dò:
“Đàn ông phải biết quản! Không thể để nó muốn gì thì !”
Bác thật sự là một người mẹ chồng tốt.
Nhưng số phận đã định – kiếp này, chúng tôi không thể có duyên phận mẹ chồng nàng dâu.
Vừa mới ngồi xuống bàn ăn, còn chưa kịp gắp miếng cơm nào, thì loa phát thanh vang lên giọng lớn của bí thư chi bộ thôn:
“Sĩ An à, bên đơn vị gọi điện tới, có việc gấp!”
“Tôi lại lần nữa… Sĩ An…”
Nghe thấy , Mạnh Sĩ An lập tức đứng phắt dậy.
“Con phải quay lại đơn vị!”
Nói xong liền xách ba lô, không quay đầu lại mà rời đi.
Cảnh tượng giống hệt kiếp trước.
Về nhà còn chưa kịp ngồi ấm ghế, đã bị gọi trở lại vì một cú điện thoại – từ Tề Dung Dung.
Tề Dung Dung, nữ văn công trong đoàn văn nghệ quân đội.
Xinh đẹp, biết ca hát, giỏi múa, lại còn biết đọc thơ.
Tề Dung Dung chính là “bạch nguyệt quang” trong lòng Mạnh Sĩ An.
Dù kiếp trước khi đó chưa phổ biến cái khái niệm “bạch nguyệt quang”, chỉ cần Tề Dung Dung mở miệng một câu,
Mạnh Sĩ An lập tức có thể lên núi đao, xuống biển lửa vì ta.
Kiếp trước, sau khi Mạnh Sĩ An rời nhà, bác trai bác đã đưa tôi đến đơn vị.
Còn nhờ cả sư trưởng người chứng hôn.
Cuối cùng ta cũng vì áp lực mà đồng ý đăng ký kết hôn, cho tôi theo quân.
Nhưng đến đêm phòng, vừa dọn cơm xong thì ta lại bị một cú điện thoại từ Tề Dung Dung gọi đi.
Sau đó lấy cớ là có nhiệm vụ khẩn cấp.
Khi quay về, giọng của ta đã mất, vùng háng cũng bị thương.
Tôi – một người vợ danh chính ngôn thuận – lại phải sống cả đời trong cảnh còn trinh.
Bốn mươi năm hôn nhân, tôi và chồng chỉ có thể trao đổi bằng giấy bút, bằng cử chỉ tay chân.
Tôi nuốt nước mắt vào trong, tận tụy chăm sóc từng miếng ăn giấc ngủ cho ta.
Còn hầu hạ cả cha mẹ chồng như con ruột.
Tôi quá ngu ngốc!
Tôi chưa từng nghĩ, nếu thật sự là người câm – thì sao ta có thể từ đoàn trưởng leo lên chức thủ trưởng?
Người bệnh như thế, đáng lẽ đã sớm phải giải ngũ rồi!
Thì ra trong đơn vị, ta vẫn năng bình thường, ra lệnh điều hành chẳng chút khó khăn.
Chỉ có về nhà mới lựa chọn im lặng với tôi.
Còn tôi thì suốt ngày ngoan ngoãn, không bao giờ dò hỏi việc ở đơn vị, cũng chẳng xen vào các mối quan hệ của ta.
Thế là bị lừa dối suốt mấy chục năm.
Bạn thấy sao?