Ta vội vàng giải thích:
“Đó là lời các tiên sinh , không phải thiếp tự tiện bình phẩm đâu. Thiếp chỉ nhận biết ít chữ thôi, thường ngày tiểu thư đọc thi thư, cũng hay dạy thiếp đọc theo vài câu.”
“Ồ?” Cô gia có vẻ hứng thú: “Vậy nàng đọc thử cho ta nghe một đoạn xem.”
Ta ngẫm nghĩ, lựa bài mình nhớ rõ nhất, rồi nhẹ giọng ngâm:
“Hàn vũ liên giang dạ nhập Ngô, Bình minh tống khách Sở sơn …”
Cô gia ngắt lời:
“Nàng có hiểu ý tứ trong bài thơ này chăng?”
“Tất nhiên là biết ạ.”
“Thiếp từng hỏi qua tiểu thư. Tiểu thư : câu đầu là tả cơn mưa lạnh bên sông, còn hai chữ ‘Bình Minh’ và ‘Sở Sơn’ phía sau thì là… một chủ một tớ.”
“Gửi tiễn Bình Minh đi rồi, Sở Sơn bơ vơ trơ trọi, đành phải đi tìm một nha đầu mới để mua về hầu hạ.”
“Ha…” Cô gia bật đến rớm lệ, vừa vừa xua tay:
“Quả thực, tiểu thư nhà nàng… về thi thư quả là chẳng ra sao.”
“Thực ra hai câu ấy về nỗi ly biệt bè, bày tỏ sự quyến luyến khó rời. Phía sau còn có câu danh ngôn thiên cổ: ‘Bằng hữu cố hương nếu hỏi thăm, xin bảo tấm lòng băng giá tựa ngọc hồ’.”
“Thì ra là thế.” Ta chợt bừng tỉnh ngộ.
Cô gia dường như chợt nghĩ tới điều gì, nụ dần tắt.
Chúng ta lặng lẽ ngồi đối diện một lúc, cuối cùng ta đánh bạo vỡ bầu không khí trầm mặc:
“Cô gia, khi xưa, vì sao người lại ngỏ lời cầu thân với tiểu thư?”
Cô gia khẽ sững người, rồi mỉm đáp:
“Một hôm, ta ra ngoài dạo mát, đi ngang qua một gốc phù dung, cờ gặp Thiên Lăng.”
“Chỉ một lần thoáng thấy, tựa như chim kinh liệng qua tầm mắt…”
“Tiểu thư nhà nàng, khi nhận sính lễ cầu thân, phản ứng thế nào?”
Ta sâu vào mắt chàng, đáp:
“Tự nhiên là rất vui.”
“Khi công tử mới chuyển tới, khắp trấn ai ai cũng đồn đại rằng, có một vị công tử từ kinh thành quý tộc tới. Những bà mối bận rộn chân không chạm đất, nhà nào có nữ nhi đều mong gả vào cửa công.”
Cô gia khẽ, rồi thò tay vào ngực áo, lấy ra một vật.
Mi mắt ta khẽ giật, vừa liếc đã nhận ra.
Đó là di vật của phu nhân — mẫu thân tiểu thư để lại.
Một cây trâm ngọc, thuở sinh thời tiểu thư ngày ngày vẫn thường dùng.
“Trước kia các ngươi thân cận như , ta cũng yên tâm giao vật này cho nàng.”
“Cũng bởi ngày mai thành thân, tuy chỉ là kế thất, theo quy củ, vẫn phải tới trước mộ Thiên Lăng ‘từ biệt linh hồn’.”
“Đến lúc đó, trên người nàng cần phải mang theo di vật của cố nhân.”
“Xong việc, cây trâm này, nàng cứ giữ lại kỷ niệm.”
Ta cố hết sức đè nén cảm , nhận lấy cây trâm.
Bấy lâu nay, hóa ra mọi sự bày bố, đều là vì vật này.
Xem ra đây chính là món đồ mà vị hòa thượng từng — thứ dùng để “dẫn đường” cho vong linh.
Cô gia nhíu mày, tựa hồ đầu lại bắt đầu đau nhức.
“Đi nghỉ sớm đi, dưỡng đủ tinh thần.”
“Ngươi và Thiên Lăng như tỷ muội, nàng ở nơi suối vàng, thấy ngươi có nơi nương tựa, ắt cũng mỉm yên lòng.”
Ta hơi ngừng một chút, rồi khẽ hỏi:
“Cô gia, chẳng hay người… có huynh đệ tỷ muội nào chăng?”
Cô gia thoáng ngẩn người, ánh mắt trở nên trống rỗng.
“Ta ư?”
“Thuở nhỏ, từng có một tên tiểu tư cùng lớn lên…”
“Nhưng hắn chẳng nên thân, bị quản gia đuổi đi mất rồi.”
Ta hành lễ cáo lui, quay người rời khỏi.
Sau lưng, gia ngồi ngẩn ra đó, dường như chìm đắm trong những hồi ức xa xăm.
Đêm xuống, cả ngày không thấy bóng dáng, A Hương rốt cuộc cũng xuất hiện, vẻ mặt mệt mỏi, lặng lẽ giúp ta trải giường.
Ta không chút buồn ngủ, đang định tìm người trò chuyện.
“A Hương, tên thật của ngươi là Diệp Du Hương, đúng không?”
A Hương thần sắc lơ đãng, như tâm trí để tận đâu: “Đúng , nương hỏi chuyện ấy gì?”
Ta khẽ , lắc đầu:
“Không có gì. Người già thêm tuổi, thường hay đãng trí, gặp chuyện liền thích xác nhận lại, chỉ sợ nhớ nhầm thôi.”
Ta lại hỏi:
“Ngươi… đã cắt tóc của người trong lòng chưa?”
A Hương toàn thân khẽ run, như thể bị vật gì đó bỏng.
“Cô nương nghỉ ngơi đi. Sáng mai ta sẽ lại tới hầu hạ.”
Dứt lời, nàng vội vã chuồn đi, bóng lưng mang theo vài phần hoảng loạn.
Ta thở dài, nằm xuống giường, tay nắm chặt lấy cây trâm ngọc.
Ánh trăng lạnh lẽo chiếu vào phòng, bóng cây lay trên tường, tựa như vô số hồn dã quỷ đang lặng lẽ dập dìu ngoài song.
Ta cố ép mình nhắm mắt.
Tất cả… đều sẽ quyết định vào ngày mai.
7
Trời sáng, khí trời rất tốt.
Pháp sư từng , dưới ánh dương rực rỡ, lúc “từ biệt linh hồn”, sẽ khó bị âm linh đeo bám.
Bởi có những nữ tử, dẫu đã khuất, lòng vẫn chẳng cam tâm để trượng phu tái giá.
Cô gia lưu lại trong phủ chờ.
Ta khoác hỉ phục đỏ thắm, đầu trùm khăn hồng, A Hương dìu đỡ, theo sau là một đoàn người, lũ lượt bước bộ ra trước phần mộ.
Bên ngoài ánh dương chan hòa, mà trong rừng cây sương mù lại mịt mờ dày đặc.
Dâng hương phẩm, rải giấy tiền vàng bạc, ta nâng trong tay cây trâm ngọc, gìn giữ cẩn thận.
Pháp sư mở đàn, miệng lẩm bẩm niệm .
Những tờ phù vàng lả tả bay đầy trời.
Giờ đã sang đầu đông, gió thổi qua rừng cây, phát ra những tiếng rền rĩ như tiếng khóc thầm thì ai oán.
A Hương sợ hãi, co ro tiến sát lại gần ta.
Ta nhận ra nàng đang hoảng hốt, bèn nhẹ giọng trấn an, cũng là để tự mình vững lòng:
“Đừng sợ, sắp xong rồi.”
Trên đường về có thể ngồi kiệu.
Trước khi lên kiệu, A Hương đột nhiên quay đầu lại, thấp giọng:
“Cái gì ?”
Ta cũng quay đầu theo.
Chỉ thấy kiệu phu đã xếp thành hai hàng, phía sau trống trơn, chẳng có lấy một bóng người.
Chỉ có làn sương mù dày đặc lặng lẽ phủ kín rừng cây.
“Ngươi sao thế?” Ta hỏi.
A Hương bước chân lảo đảo, giọng run rẩy:
“Cô nương… vừa rồi hình như có người đang chuyện…”
Sắc mặt ta lập tức tái nhợt.
“Nghe lầm rồi. Mau đi thôi.”
Đi nửa đường, kiệu bỗng nhiên dừng lại.
Ta cố gắng giữ vững bình tĩnh, hỏi:
“Lại xảy ra chuyện gì?”
Kiệu phu đáp:
“Có người chặn kiệu.”
Ta vén màn kiệu, chỉ thấy một bóng người quen thuộc đang đứng chờ phía trước.
“Cô nương, là tiểu nhân.”
Ta thở phào một hơi — hóa ra là quản gia Lý của phủ họ Nhạc.
Quản gia Lý tiến lên một bước, khom người dâng lên một chiếc hộp nhỏ.
“Đây là chút tâm ý do gia nhân phủ Nhạc góp tiền mua, chúc nương sau này vạn sự như ý.”
A Hương đứng bên, thần sắc đầy vẻ nghi hoặc, đưa mắt qua lại.
Ta mở hộp ra xem.
Là một cây trâm vàng, cầm trên tay thấy nặng trĩu.
“Quý phủ có lòng, thiếp xin đa tạ.”
Bạn thấy sao?